Tiêu đề: Nước sạch về Trà Cú Thu Apr 16, 2009 4:53 pm1
Trà Cú tỉnh Trà Vinh là huyện đồng bằng, xen kẽ các tuyến giồng cát, tầng nước ngầm ở đây thường bị nhiễm mặn vào những tháng 3, 4, 5 trongnăm và lượng phèn rất cao nên bà con gặp nhiều khó khăn về vấn đề nước sinh hoạt. Từ năm 1999 đến nay, được sự quan tâm của Chính phủ và nhiều tổ chức quốc tế, nước sinh hoạt vùng nông thôn Trà Cú dần được cải thiện.
Đặc biệt, hiện nay Trà Cú đang tập trung triển khai Chương trình 134 của Chính phủ trong việc đưa nước sạch về cụm dân cư vùng đồng bào Khmer gặp khó khăn về nước sạch. Những chương trình, dự án này đã tạo ra một sự khởi sắc cho bà con nông thôn, vùng sâu, vùng xa, góp phần thúc đẩy tích cực cho việc chăm sóc sức khỏe của người dân nơi đây; hạn chế được các bệnh do nguồn nước gây nên. Tính đến 9/2005, huyện Trà Cú đã có 138.000 người dân được sử dụng nước sạch, đạt tỷ lệ 84%. Bình quân mỗi năm cung cấp khoảng 400.000m3, mỗi hộ sử dụng trung bình 50,5m3/năm (28lít/người/ngày).
Để tìm hiểu thêm về hiệu quả các chương trình dự án cung cấp nước sạch cho đồng bào, chúng tôi đã khảo sát tại một số xã trong huyện. Đồng chí Kim Khai - Phó Bí thư Đảng ủy xã Long Hiệp cho biết: Xã có 8 ấp với 1.368 hộ, trong đó có 1.118 hộ là người dân tộc Khmer, thì hiện đã có 1.090 hộ (chiếm 86,23%) được sử dụng nước sạch. Còn hơn 200 hộ nghèo sống ở những ấp vùng sâu, vùng xa như Giồng Tranh A, Giồng Tranh B, Trà Sất A, Trà Sất B… hiện đang gặp khó khăn về nguồn nước sạch. Đến nay, địa phương đã triển khai xây dựng ba trạm cấp nước cho các cụm dân cư nơi đây (theo nguồn vốn Chương trình 134) và mỗi hộ được hỗ trợ 500.000 đồng để lắp đặt ống dẫn nước về gia đình, những hộ sống xa hệ thống đường ống chính, không có khả năng lắp đặt đường ống nhánh thì được cấp 500.000 đồng để xây lu, bể chứa nước theo chương trình. Do vậy, bà con vui mừng, phấn khởi đóng góp công sức cùng chính quyền xây dựng công trình…
Đến nay tỷ lệ dùng nước sinh hoạt của xã là 93,6%, nhưng hiện nay mới chỉ có 978 hộ được sử dụng nước máy qua hệ thống lọc, còn 483 hộ chưa được dùng nước sạch bởi đây là những hộ nghèo, không sống gần trung tâm cụm dân cư, không nằm trong hệ thống đường ống nước (họ sống rải rác ở ngoài bờ sông, cánh đồng). Dự kiến đến tháng 12 năm 2005, xã sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng thêm ba trạm cung cấp nước sạch để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của bốn ấp người Khmer: Nô Men, Nô Đùng, Bến Nố,…Chị Thạch Sơ Rươn, sống ở ấp Bến Nố tâm sự: Từ trước đến nay, chúng tôi thường sử dụng nguồn nước giếng hộc là chính. Khi vào mùa mưa thì các giếng thường bị ô nhiễm do nguồn nước ở tầng mặt thấm xuống, vào mùa nắng thì các giếng hay bị cạn (đối với đất giồng cát). Vì vậy, bà con chúng tôi luôn mong mỏi được dùng nước sạch sinh hoạt để đảm bảo sức khỏe và vệ sinh môi trường.
Theo khảo sát của địa phương do số hộ dân sống không tập trung và nhiều khu vực nguồn nước ngầm không đảm bảo lượng nước cho trạm cấp nước, vì thế chi phí đầu tư cho công trình hết sức lớn mà tính hiệu quả lại không cao. Bên cạnh đó, hầu hết các hộ dân nơi đây còn nghèo, thu nhập thấp, mức chi tiêu cho sử dụng nước máy chưa cao, khoảng 3% số hộ không thanh toán tiền nước đã sử dụng trong tháng, thường trả lùi lại qua tháng kế tiếp. Hay, có trường hợp không trả tiền lắp đồng hồ và tiền sử dụng nước quá lâu nên Trung tâm nước phải ngưng cấp nước cho số hộ này. Vì vậy, việc triển khai xây dựng hệ thống nước sạch phục vụ cho bà con nơi đây tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng còn có rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong khâu quản lý và sử dụng các công trình cấp nước công cộng. Đây là một vấn đề đòi hỏi chính quyền địa phương phải có những giải pháp cụ thể, nhằm tuyên truyền cho người dân hiểu rõ về quyền hạn và nghĩa vụ của mình đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho họ, giúp 100% hộ dân ở vùng nông thôn nghèo được sử dụng nước sạch vào năm 2010, như mục tiêu mà huyện đã đề ra một cách bền vững và lâu dài../.
--------------------------------------------------------------------------------
Đặc biệt, hiện nay Trà Cú đang tập trung triển khai Chương trình 134 của Chính phủ trong việc đưa nước sạch về cụm dân cư vùng đồng bào Khmer gặp khó khăn về nước sạch. Những chương trình, dự án này đã tạo ra một sự khởi sắc cho bà con nông thôn, vùng sâu, vùng xa, góp phần thúc đẩy tích cực cho việc chăm sóc sức khỏe của người dân nơi đây; hạn chế được các bệnh do nguồn nước gây nên. Tính đến 9/2005, huyện Trà Cú đã có 138.000 người dân được sử dụng nước sạch, đạt tỷ lệ 84%. Bình quân mỗi năm cung cấp khoảng 400.000m3, mỗi hộ sử dụng trung bình 50,5m3/năm (28lít/người/ngày).
Để tìm hiểu thêm về hiệu quả các chương trình dự án cung cấp nước sạch cho đồng bào, chúng tôi đã khảo sát tại một số xã trong huyện. Đồng chí Kim Khai - Phó Bí thư Đảng ủy xã Long Hiệp cho biết: Xã có 8 ấp với 1.368 hộ, trong đó có 1.118 hộ là người dân tộc Khmer, thì hiện đã có 1.090 hộ (chiếm 86,23%) được sử dụng nước sạch. Còn hơn 200 hộ nghèo sống ở những ấp vùng sâu, vùng xa như Giồng Tranh A, Giồng Tranh B, Trà Sất A, Trà Sất B… hiện đang gặp khó khăn về nguồn nước sạch. Đến nay, địa phương đã triển khai xây dựng ba trạm cấp nước cho các cụm dân cư nơi đây (theo nguồn vốn Chương trình 134) và mỗi hộ được hỗ trợ 500.000 đồng để lắp đặt ống dẫn nước về gia đình, những hộ sống xa hệ thống đường ống chính, không có khả năng lắp đặt đường ống nhánh thì được cấp 500.000 đồng để xây lu, bể chứa nước theo chương trình. Do vậy, bà con vui mừng, phấn khởi đóng góp công sức cùng chính quyền xây dựng công trình…
Đến nay tỷ lệ dùng nước sinh hoạt của xã là 93,6%, nhưng hiện nay mới chỉ có 978 hộ được sử dụng nước máy qua hệ thống lọc, còn 483 hộ chưa được dùng nước sạch bởi đây là những hộ nghèo, không sống gần trung tâm cụm dân cư, không nằm trong hệ thống đường ống nước (họ sống rải rác ở ngoài bờ sông, cánh đồng). Dự kiến đến tháng 12 năm 2005, xã sẽ hoàn thành và đưa vào sử dụng thêm ba trạm cung cấp nước sạch để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của bốn ấp người Khmer: Nô Men, Nô Đùng, Bến Nố,…Chị Thạch Sơ Rươn, sống ở ấp Bến Nố tâm sự: Từ trước đến nay, chúng tôi thường sử dụng nguồn nước giếng hộc là chính. Khi vào mùa mưa thì các giếng thường bị ô nhiễm do nguồn nước ở tầng mặt thấm xuống, vào mùa nắng thì các giếng hay bị cạn (đối với đất giồng cát). Vì vậy, bà con chúng tôi luôn mong mỏi được dùng nước sạch sinh hoạt để đảm bảo sức khỏe và vệ sinh môi trường.
Theo khảo sát của địa phương do số hộ dân sống không tập trung và nhiều khu vực nguồn nước ngầm không đảm bảo lượng nước cho trạm cấp nước, vì thế chi phí đầu tư cho công trình hết sức lớn mà tính hiệu quả lại không cao. Bên cạnh đó, hầu hết các hộ dân nơi đây còn nghèo, thu nhập thấp, mức chi tiêu cho sử dụng nước máy chưa cao, khoảng 3% số hộ không thanh toán tiền nước đã sử dụng trong tháng, thường trả lùi lại qua tháng kế tiếp. Hay, có trường hợp không trả tiền lắp đồng hồ và tiền sử dụng nước quá lâu nên Trung tâm nước phải ngưng cấp nước cho số hộ này. Vì vậy, việc triển khai xây dựng hệ thống nước sạch phục vụ cho bà con nơi đây tuy đã đạt được những kết quả bước đầu, nhưng còn có rất nhiều khó khăn và vướng mắc trong khâu quản lý và sử dụng các công trình cấp nước công cộng. Đây là một vấn đề đòi hỏi chính quyền địa phương phải có những giải pháp cụ thể, nhằm tuyên truyền cho người dân hiểu rõ về quyền hạn và nghĩa vụ của mình đối với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước dành cho họ, giúp 100% hộ dân ở vùng nông thôn nghèo được sử dụng nước sạch vào năm 2010, như mục tiêu mà huyện đã đề ra một cách bền vững và lâu dài../.
--------------------------------------------------------------------------------